Sử dụng cám gạo và cám lúa mì làm nguồn cacbon hữu cơ hỗ trợ kiểm soát đáng kể các hợp chất nitơ và nâng cao sản lượng trong hệ thống ương tôm thẻ chân trắng

Trong hệ thống nuôi thâm canh tôm thẻ chân trắng với sự thay nước tối thiểu, cộng đồng vi sinh vật (vi khuẩn dị dưỡng và nitrat hóa) được kích thích bởi nguồn cung cấp carbon hữu cơ trong nước hỗ trợ quá trình chuyển hóa các hợp chất nitơ thành hợp chất ít độc hơn (nitrat) và cả sinh khối vi sinh vật. Một số nguồn cacbon hữu cơ đã được sử dụng (mật đường, cám thực vật, đường dextrose và đường) để kích thích sự phát triển của vi khuẩn. Tuy nhiên, trong những năm gần đây, các chiến lược mới như synbiotics đã được kết hợp vào sản xuất nuôi trồng thủy sản thâm canh, được coi là có tiềm năng cho nuôi tôm.

Hệ thống synbiotic là kết quả của các quá trình kỵ khí hoặc hiếu khí được thực hiện bởi vi sinh vật (chế phẩm sinh học) trên nền thực vật hoặc động vật, cám và các loại carbohydrate khác (prebiotics). Do đó, các vi sinh vật probiotic thúc đẩy sự phân hủy các phân tử phức hợp hữu cơ thành các phân tử đơn giản hơn và cung cấp lượng vi chất dinh dưỡng và đa lượng cân bằng cho động vật trong hệ thống nuôi trồng thủy sản. Hơn nữa, có sự sản xuất các axit hữu cơ như axit lactic, axetic và butyric. Điều này cung cấp sự cân bằng giữa các vi sinh vật và cung cấp ít carbon hữu cơ hơn trong hệ thống.

Nghiên cứu này đánh giá ảnh hưởng của quá trình kỵ khí và hiếu khí sử dụng cám gạo và cám lúa mì làm nguồn cacbon hữu cơ (synbiotic) đối với sự phát triển của ấu trùng tôm thẻ chân trắng trong nước biển và các hệ thống ương nuôi độ mặn thấp.

Thiết lập nghiên cứu

Thực hiện 3 thử nghiệm với nước biển và nước có độ mặn thấp. Đối với thử nghiệm nước biển, một bể nước có độ mặn 35‰ được khử trùng bằng clo 13 mg/L và khử clo bằng cách sục khí trong 72 giờ. Sau đó, xử lý bón phân vô cơ với urê (4,5 g N/m³), superphotphat 3 lần (0,3 g P/m³) và natri silicat (0,23 g Si/m³). Trong thử nghiệm nước có độ mặn thấp, pha loãng nước biển đến độ mặn 2 g/L, khử trùng bằng clo 13 mg/L và khử clo bằng cách sục khí trong 72 giờ. Sau đó, việc bón phân hữu cơ được thực hiện như đối với thử nghiệm nước biển.

PL 10-24, được thả với mật độ 2.000 - 3.000 con/m³, cho ăn thức ăn công nghiệp (45% protein thô và 9,5% lipid) 4 lần/ngày. Tỷ lệ cho ăn được điều chỉnh hàng tuần dựa trên tốc độ tăng trưởng của tôm, mức tiêu thụ ước tính và tỷ lệ chết.

Để đánh giá hiệu suất của tôm, vào cuối mỗi thử nghiệm, đem cân để xác định trọng lượng cuối cùng (g), tỷ lệ chuyển hóa thức ăn (FCR), năng suất (kg/m³) và tỷ lệ sống (%).

Các chỉ tiêu chất lượng nước trong các đơn vị thí nghiệm như oxy hòa tan (DO, mg/L), nhiệt độ (°C) và độ mặn (g/L), được theo dõi hàng ngày. Các chỉ tiêu khác như tổng nitơ amoniac (TAN, mg/L), nitrit nito (NO2 – N, mg/L) và độ kiềm (mg CaCO3/L) được đo hàng tuần.

Thử nghiệm thứ nhất

Việc bón phân hữu cơ được thực hiện khoảng 10 lần. Phân được xử lý qua giai đoạn kỵ khí trong 48 giờ và giai đoạn hiếu khí trong 24 giờ. Trong thời gian thí nghiệm, phân bón được bổ sung cho các đơn vị thí nghiệm 3 ngày/lần trong suốt 42 ngày thí nghiệm. Phân hữu cơ bao gồm cám lúa mì (22,5 – 50 g/m³), mật đường (12 - 25 g/m³) và natri bicacbonat (4,5 - 10 g/m³). Chúng tôi đã thêm 0,5 g/m³ một sản phẩm có chứa Bacillus subtilis, B. licheniformis, Lactobacillus sp., Saccharomyces sp.Pseudomonas sp. 7,7 x 108 CFU/g.

Thử nghiệm thứ 2

Việc bón phân hữu cơ được thực hiện khoảng 10 lần. Phân được xử lý qua giai đoạn kỵ khí trong 24 giờ và giai đoạn hiếu khí trong 24 giờ. Phân hữu cơ bao gồm cám gạo (<200 μm, 20 g/m³), mật đường (2 g/m³), natri bicacbonat (4 g/m³). Bổ sung 0,5 g/m³ sản phẩm chứa Bacillus subtilis, B. licheniformis, Lactobacillus sp., Saccharomyces sp. và Pseudomonas sp. 5,5 - 6,5 x 107 CFU/g.

Thử nghiệm thứ 3

Việc bón phân hữu cơ được thực hiện thông qua 8 - 10 lần. Phân được xử lý qua giai đoạn kỵ khí trong 24 giờ và giai đoạn hiếu khí trong 24 giờ. Phân hữu cơ bao gồm cám gạo (<200 μm, 20 g/m³), mật đường (2 g/m³), natri bicacbonat (4 g/m³). Bổ sung 0,5 g/m³) sản phẩm có chứa Bacillus subtilis, B. licheniformis, Lactobacillus sp., Saccharomyces sp. và Pseudomonas sp. 6,5 x 107 CFU/g. Ngoài ra, trong thử nghiệm này, để hỗ trợ sự phát triển của cộng đồng vi sinh vật và quá trình nitrat hóa trong các đơn vị thí nghiệm, chúng tôi đã thêm vỏ của loài Anomalocardia brasiliana 2 mảnh vỏ làm chất nền nhân tạo (bao phủ khoảng 28% diện tích đáy (25 x 24 x 5 cm), tương ứng với 3,36% thể tích), tái sử dụng khoảng 15% nước trong bể ương tôm.

Kết quả và thảo luận

Các chỉ tiêu chất lượng nước vẫn nằm trong phạm vi khuyến nghị.

Bảng 1. Các chỉ tiêu chất lượng nước

Chỉ tiêu

Thử nghiệm 1

Thử nghiệm 2

Thủ nghiệm 3

TAN (mg/L)

0.3 ± 0.11

0.6 ± 0.36

0.33 ± 0.54

NO2 – N (mg/L)

1.1 ± 0.49

1.56 ± 0.92

0.41 ± 0.13

Độ kiềm (mg CaCO3/L)

118.34 ± 16.5

128.31 ± 3.08

95.47 ± 41.04

 

Bảng 2. Hiệu suất ao ương

Chỉ tiêu

Thử nghiệm 1

Thử nghiệm 2

Thủ nghiệm 3

Trọng lượng (g)

0.98 ± 0.16

0.96 ± 0.31

0.85 ± 0.37

Năng suất (kg/m3)

2.48 ± 0.03

2.5 ± 0.86

1.53 ± 0.71

Tỷ lệ sống (%)

84.45 ± 10.54

92.54 ± 4.47

89.01 ± 5.6

FCR

1.28 ± 0.27

1.2 ± 0.26

1.34 ± 0.5

 

Dựa trên kết quả nghiên cứu, chúng tôi chỉ ra rằng sự kết hợp giữa xử lý kỵ khí và hiếu khí đối với cám lúa mì và cám gạo bằng vi sinh vật và sử dụng chúng như một nguồn cacbon hữu cơ, và việc sử dụng giá thể nhân tạo trong ương tôm thẻ chân trắng là một giải pháp khả thi. Cách tiếp cận này cho phép kiểm soát tốt hơn tổng nitơ amoniac và nitrit-nitơ trong nước biển và hệ thống có độ mặn thấp, giảm tỷ lệ chết đối với tôm nuôi do độc tính của các hợp chất nitơ.

Nhìn chung, kết quả của chúng tôi đã chứng minh rằng việc sử dụng phương pháp bón phân trong nước góp phần tích cực vào sự phát triển của vi khuẩn dị dưỡng và nitrat hóa có lợi, do đó hỗ trợ cải thiện sự tăng trưởng và tỷ lệ sống của tôm trong điều kiện nước biển và nước có độ mặn thấp.

Quan điểm

Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy việc sử dụng kết hợp cám thực vật (kỵ khí và hiếu khí) như một nguồn cacbon hữu cơ và chế phẩm sinh học (synbiotic), chất nền nhân tạo và tái sử dụng nước giúp kiểm soát đáng kể các hợp chất nitơ (TAN và NO2 – N), ảnh hưởng tích cực đến sự tăng trưởng của tôm thẻ chân trắng trong ao ương với nước biển và nước có độ mặn thấp.

Nguồn: https://www.globalseafood.org/

Dịch: Trần Thị Thúy Quyên